Saturday, March 26, 2016

Đây là một bài viết tôi sưu tầm được, nhưng tôi phải nói trước với bạn là ngôn từ của nó không hề ngọt tai, nếu bạn chưa sẵn sàng nhìn nhận thực tại bản thân hay thế hệ, có lẽ bạn sẽ thấy một chút khó chịu khi đọc.
Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.
Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút? Câu trả lời là: LƯỜI!
Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi.
Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa.
Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!

LƯỜI VẬN ĐỘNG, TẬP THỂ DỤC

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4 giờ sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.
Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.

LƯỜI HỌC

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.
Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.

LƯỜI LÀM

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.
Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.

LƯỜI SUY NGHĨ

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.
Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.

LƯỜI TRANH ĐẤU

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.
Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.
Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?
Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu…
Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói:
“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.”
Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.
Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!
Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.
 Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.
Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!
Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.
Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.
Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hy sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.
Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hy vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của từ chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…
(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.)
Theo Lục Phong

Sunday, March 13, 2016

GLASS WORK IN HI-RISE BUILDINGS

Glass type and the cladding supporting details must meet the requirements of the design, the steel details must be painted anti-rust. The moving details (like hinge, pin and varieties of locks …) are not be leaned against the glass and the glass frame structure.
Mastic installing glass will be plastic enough to insert glass and calk tightly plots between glass and frame. After placing into the position of frame, the surface of glass shouldn’t be cracked. As inserting the mastic, it shouldn’t press strongly. The plastic and soft of the mastic will easily press and flat to create the continuous lines without rough, without sticky in neither the glass nor frame and without sliding to the surface of structure.
When checking plastic of the mastic with the pressing layer thick 0.5mm arranging to the steel panel, will not less than 20mm. Mastic near glass when put into use must be packed tightly with the brand of manufacturing place and must be ensured for the product quality as regulated.
The glass product delivered to the Site must be ready tolled in accordance with the order dimension or design. Enclosed with the glass product must have the cladding supports and positioning nails. The glass cutting must be done by the professional workers. The glass products after cut must be packed into the container in accordance with each size and arrange into set for each room, flat or construction.
The glass will be installed deep into the groove of the frame as ¾ the width of the groove. Between glass face and the slope of groove will have an opening area at least 2mm for insert mastic. The layer of mastic above will be continuous, smooth.
Plain glass, decorating patterned glass, opaque glass, structured glass besides the designed regulations, must be positioned firmly by suitable details with the material & structure of the glass frame as follows:
• Wooden frame – the glass is positioned by the pin, the space between the pins is not over 300mm. On each glass side, no. of positioning pins is minimum two.
• If use the steel splint, between the glass and splint must have the rubber supporting and use the positioning screw with the inclining angle of 450 compare to the glass plane.
• Steel frame – Aluminium alloy frame – the glass is positioned by the rubber splint with the galvanized steel splint. Connection between splint and frame depending on the screws put into the ready tolled holes. For some kinds of steel or Aluminium alloy frames, to position the glass, use the forming splint with the enclosed rubber supports
• Plastic frame – the glass is positioned by the plastic splint screwed & and placed mastic inside.
• Reinforced concrete frame – the glass is positioned by the steel edging details plunged into the concrete & the steel splints with the plastic or rubber support.
In the house & the other civil constructions, do not allow to assembly the connected glass (in one glass compartment), the glass got the cracks over 10mm long, the unable cleaning stain or the glass got foreign bodies or other defectives …In case that the glass compartment has got the connection, need to negotiate with the construction designer. Then, one glass compartment can be assembled by two pieces & place overlapped one piece of 20mm. Two sides of the glass piece must be positioned tightly by splint with no. of screws or nails at least 2, then filled two sides by mastic.
The glass assembling into frame belongs to the covering structure takes the light from outside, besides the tight position and tight connection between glass & frame, need to ensure for not let water go through or absorb through the connected positions between the glass & frame. The steel connecting details must be anti-rusted by painted or galvanized. The used mastic must stand the affection of regular rain & sun.
The multi-layer glass must be installed into the wooden frame, steel frame or reinforced steel frame as well as fixed tightly by rubber spacer, plastic spacer with steel splint or by screw and placing mastic.
start a construction company

HOW TO START A CONSTRUCTION COMPANY?

start a construction company
Starting a construction company can be a profitable venture under the right circumstances. Construction is an industry that will always be in demand and will not yield easily to automation. If you have experience in construction and want to start your own company, be sure to research requirements, laws, and business basics before taking the plunge.
One of the first things to consider before starting your own construction company is financing. If you do not have available funds to purchase materials, tools, and labor, you will need to arrange financing for the start up of your company. You also need to make sure you have a contractor’s license and bonding insurance to protect you.
The amount of financing you need will vary greatly depending on the size of the construction projects you intend to start out with. If you are performing small jobs such as remodels, additions, or decks, you might be able to purchase materials and tools on credit. Remember that interest eats away at profit, so be sure that you can meet a completion date and collect your fees from your clients in a timely manner.
It is extremely important to have an understanding of cost estimation when you bid a project. Underbidding yourself to get jobs will soon eat away at your profits and eventually doom your success. However, if you bid too high, your more established competitors will beat you out. If you do not know how to bid competitively, you should either develop the skill or hire someone who is knowledgeable about construction estimation.
With funds available for purchasing materials, insurance to cover potential accidents, and clients, you will have to turn your attention to your craft force. If you plan to be on site at all times overseeing the construction process, you can easily manage your craft force. If you intend to work hands off, you’ll need to hire someone experienced at leading a crew of workers to make sure the job is done right and according to schedule.
Start with small jobs and advertise by word of mouth. Do a good job for your initial clients, and they will spread the word. Ask to place temporary signs at a completed site for advertising purposes as well. Make sure you have someone available to provide estimates for potential clients without holding up current construction projects. As your company grows, you can hire additional personnel to assist with certain jobs.
Be sure to develop a good relationship with building inspectors in your area and to have both a business attorney and an accountant at your disposal should you need their services. Careful planning and attention to detail will ensure that your construction company stays afloat during the roughest first two years of operation. With a qualified craft force and a desire to succeed, you can grow a solid small to mid-sized construction company within five years.

HOW TO GET A CIVIL ENGINEERING DEGREE

A civil engineer specializes in city building. This includes bridges, water distribution, infrastructure, and roads. In order to get a civil engineering degree, you will need to complete four requirements: find a school, meet admission requirements, pay tuition fees, and complete the coursework. All of these items are required to obtain a civil engineering degree.
Civil engineers typically work in teams with other professionals. They are responsible for taking designs, plans, and schematics and converting them into actual structures. This type of engineering job often requires travel for extended periods of time. Many key projects are located in other cities or countries.
A civil engineering degree can be obtained from both online or traditional universities. It is important to explore the different programs available in the engineering faculty to find the right discipline for you. Avoid schools that offer only one or two different types of engineering. The greater the breadth of courses available to you, the more enriched your education will be.
The admission requirements for a civil engineering degree vary, but typically require high school credits in calculus, algebra, physics, English, and technology.These programs are very competitive, requiring high marks to gain admission to the best programs. People who enjoy building structures and design are most likely to enjoy civil engineering.
Engineering is a professional program, and so the fees are sometimes significantly higher than a Bachelor of Arts and Sciences degree. It pays to explore scholarships and grants available to students based on marks or other requirements. Student jobs available on campus often pay significantly more than market rates. These jobs are considered part of the overall student aid package.
The first year of an engineering program is usually the same for all students, regardless of discipline. The courses are typically English, calculus, physics, structure, design, math, and technology. In the second year, more specialization in course offering becomes available, and the students begin to separate.
In the third and fourth years, the courses are focused on details of each field. Engineering programs have very heavy course loads, with a significant time commitment required. Many schools counsel students not to accept part time jobs or have outside commitments, as they will not have the time to follow through.
Upon successful completion, students apply for a professional engineering designation or P. Eng. The Professional Engineer Association of America manages this designation. They are responsible for evaluating courses, offering specific programs and running the examination and certification process.

BARRETTE PILE – ADVANCED TECHNOLOGY FOR BUILDING FOUNDATIONS

Barrette pile is a type of drilled and cast-in-place pile, the distinctive characters of which are the shape and way of drilling. Grab-bucket or Hydrofraise type drilling tools are used for barrette pile construction. The size of these tools determines that of the piles.
The simplest piles are made with one stroke of a standard size grab-bucket (or hydrofraise cutting drums). The sizes are :
  • width : 0.52, 0.62, 0.82, 1.02, 1.22, 1.52 m
  • length : 1.80, 2.20, 2.70, 3.0 m
Starting from these dimensions, bigger or more rigid piles can be formed : bars, crosses, H shaped piles, T shaped piles…
Forms of Barrete Piles
Various forms of Barrette Piles
The methods of calculation and measurement for barrettes are the same as those for drilled and cast-in-place circular piles.

METHOD OF CARRYING OUT THE WORKS

Classically, it includes 3 stages :
1. drilling,
2. putting the reinforcements in place,
3. concreting.
The drilling is generally done under a bentonitic slurry, like a classical diaphragm wall. Often, when the working platform is poor, simplified guide walls are used.
After desanding the drilling slurry, the reinforcement cage is lowered into the trench.
Concreting is done in the usual way with a tremie pipe. Depending on the size of the pile, several pipes may have to be used.

ADVANTAGES OF MULTIFORM STRIP PILES

Due to their shape, the strip piles have several advantages :
  • resistance to horizontal stress and to bending moments better than circular piles of the same section,
  • easy adjustment to structures, so that one single pile is sufficient under each column or bearing unit,
  • better mobilisation of lateral friction than a circular pile of the same section, because of a larger perimeter.
The preferential application field is that of high bearing capacities : from 5 000 kN upwards. The ability to enlarge their area easily makes their possibilities almost limitless.

QUALITY CONTROL

During the accomplishment of the work, the following are checked successively :
  • the quality of the slurry, the verticality and the depth of the borehole,
  • the position of the reinforcements,
  • the volume of concrete at each level.
After the concrete has set, a quality control very often carried out, is to inspect the continuity of the concrete by means of a sonic control. For this, 4 or more pipes are inserted into the reinforcement. Not destructive, this type of control is generally very exact and reliable.

LOADING TESTS

The development of pre-stressed tiebacks has permitted high capacity loading tests at relatively acceptable costs. The test took place on a half-size strip-pile ie. 2.20 X 0.62 m. The load was mobilised by 4 pre-stressed tie-backs 18 T 15 capable of 1 764 t at breaking point.
The maximum load applied was equal to 1.5 time the working load and the stress in the concrete was 7 MPa. The vibrating wire cells used to monitor the distribution of the stresses show that most of the load was taken up by pile toe.

WHAT IS CIVIL ENGINEERING?

Civil Engineering is a branch of engineering that encompasses the conception, design, construction, and management of residential and commercial buildings and structures, water supply facilities, and transportation systems for goods and people, as well as control of the environment for the maintenance and improvement of the quality of life. Civil engineering includes planning and design professionals in both the public and private sectors, contractors, builders, educators, and researchers.
The civil engineer holds the safety, health, and welfare of the public paramount. Civil engineering projects and systems should conform to governmental regulations and statutes; should be built economically to function properly with a minimum of maintenance and repair while withstanding anticipated usage and weather; and should conserve energy and allow hazard-free construction while providing healthful, safe, and environmentally sound utilization by society.
Civil engineers play a major role in developing workable solutions to construct, renovate, repair, maintain, and upgrade infrastructure. The infrastructure includes roads, mass transit, railroads, bridges, airports, storage buildings, terminals, communication and control towers, water supply and treatment systems, storm water control systems, waste water collection, treatment and disposal systems, as well as living and working areas, recreational buildings, and ancillary structures for civil and civic needs. Without a well-maintained and functioning infrastructure, the urban area cannot stay healthy, grow, and prosper.
Because the desired objectives are so broad and encompass an orderly progression of interrelated components and information to arrive at the visually pleasing, environmentally satisfactory, and energy-frugal end point, civil engineering projects are actually systems requiring the skills and inputs of many diverse technical specialties, all of which are subsets of the overall civil engineering profession.
Some of the subsets that civil engineers can specialize in include photogrammetry, surveying, mapping, community and urban planning, and waste management and risk assessment. Various engineering areas that civil engineers can specialize in include geotechnical, construction, structural, environmental, water resources, and transportation engineering.

So sánh giữa CAD và REVIT và Sự cần thiết phải học REVIT

Revit vượt trội CAD về độ chính xác và tốc độ
Revit vượt trội CAD về độ chính xác và tốc độ 

Có một điểm về mặt triết lý mà chúng ta suy nghĩ thử: CAD chỉ là phiên bản điện tử của bút vẽ, thước và tẩy. Nếu không có CAD thì chúng ta vẫn có thể dùng những công cụ truyền thống (bút, thước).

Revit cho chúng ta những điểm mạnh mà đúng là chỉ có máy tính mới làm được: Tất cả dữ liệu đều thống nhất ở dạng 3D theo mô hình BIM. Sở dĩ có điều này là vì Revit là một phần mềm "thông minh". Nó giúp chúng ta làm những việc mà đúng với tính thần của máy tính: Những việc gì có thể tự động hoá và có luật lệ thì máy tính sẽ làm giúp chúng ta. Việc này hạn chế sai sót do bàn tay con người gây ra.


Có lẽ các bạn cho là chuyện xa vời, nhưng xu hướng của ngành công nghiệp thiết kế kiến trúc hiện nay là các bộ phận thiết kế (KTS, KS kết cấu, KS môi trường ...) đang cần tiến lại làm nhau và làm việc cùng nhau dưới một mô hình thông tin thống nhất. Mục đích lớn nhất của BIM được đặt ra là để giải quyết điều này. Đặc biệt là trong những công trình lớn.
Hai trong số những toà tháp cao nhất thế giới là Freedom Tower ở New York và Shanghai Tower ở Thượng Hải được triển khai bằng Revit.

Ở Sài Gòn có công ty của nước ngoài tên là Atlas chuyên triển khai hồ sơ cho các khác hàng ngoại quốc, phần lớn là Anh và Úc. Lúc trước họ dùng CAD nhưng sau này đã chuyển sang dùng Revit toàn bộ, và họ vẫn làm triển khai hồ sơ bằng Revit cho Anh và Úc thành công. Mình có dịp trao đổi với mấy vị quản lý người Anh của Atlas và họ đều nói Revit tăng năng suất lên đáng kể, và việc quản lý cũng dễ dàng hơn.

Vẽ CAD như đi xe đạp, thật là chậm và vất vả!
Vẽ CAD như đi xe đạp, thật là chậm và vất vả!
Vẽ Revit như đi mô-tô, thoải mái và rất nhanh!
Vẽ Revit như đi mô-tô, thoải mái và rất nhanh!
        

Nếu trong hồ sơ xin việc mà có ghi là bạn biết xài Revit, thì đó là một điểm cộng rất lớn trong con mắt nhà tuyển dụng (trừ khi đó là các công ty quá nhỏ).

Ở Anh có cả London Revit User Group (hội những người sử dụng Revit ở London).http://www.lrug.org.uk/index.php?opt...d=84&Itemid=74. Nếu xem trong phần danh sách các công ty thành viên thì có rất nhiều công ty lớn như Zaha Hadid Architects, HOK, Arup, Atkins. Hội này mỗi tháng họ gặp mặt một lần để các công ty thành viên trao đổi kinh nghiệm dùng Revit với nhau. Điều này cho thấy Revit được dùng rất nhiều ở Anh.

Ở Mỹ cũng vậy, Revit có lẽ là phần mềm BIM phổ biến nhất nhưng vẫn có công ty dùng ArchiCAD (Lưu ý là ArchiCAD là phần mềm BIM nhé, vì vậy thực ra nó cùng nhóm với Revit chứ không phải AutoCAD đâu. Nhiều người thấy ArchiCAD có chữ CAD lại nghĩ nó là chị em của AutoCAD). Chính phủ yêu cầu tất cả công trình làm cho chính phủ phải theo chuẩn BIM cả. Ở Úc, BIM cực kỳ phổ biến.

Nhưng nói gì thì nói, nếu chỉ lấy số lượng công trình tạo nên từ Revit để so sánh là hết sức khập khiễng, vì AutoCAD đã được sử dụng trong ngành kiến trúc xây dựng rất lâu rồi nên dĩ nhiên có nhiều công trình triển khai bằng CAD hơn, trong khi revit mới xuất hiện gần đây, nên không thể lấy số lương ra so sánh. Nếu so sánh như vậy thì có lẽ vẽ tay là hay hơn autocad nhiều vì vẽ tay được dùng từ thời cổ đại nên số lượng công trình vẽ tay ăn đứt autocad là cái chắc. 

Để đánh giá khách quan thì phải xem xét: một khi một công ty đã chuyển từ CAD sang BIM (không nhất thiết là Revit, mà có thể là một phần mềm BIM nào khác) thì họ có hài lòng không và liệu có ai khi đang dùng BIM mà lại chuyển ngược lại CAD không. Đó mới là cơ sở đánh giá công bằng. Nói thật với bạn. Ở VN mình thấy bỏ BIM dùng CAD không hiếm, nhưng mình hầu như chưa hề thấy một công ty ở nước ngoài nào chuyển từ BIM sang CAD cả, mà chỉ có chuyển CAD sang BIM. 

Đọc báo cáo khảo sát của McGraw Hill (đây là một công ty khá nổi tiếng chuyên xuất bản các thống kê khảo sát trong ngành công nghiệp xây dựng) thì sẽ thấy, phần trăm các công ty dùng BIM tăng lên nhanh trong nhưng năm vừa qua. (Báo cáo này có thể tìm thấy trên google)

Nhiều người cho rằng Revit không hoàn hảo. Đúng, Revit không hoàn hảo, không ai nói nó hoàn hảo cả. Nhưng nên nhớ là AutoCAD cũng có hoàn hảo đâu (mặc dù tuổi đời của nó dài gấp mấy lần Revit). Nếu mà hoàn hảo thì Autodesk sao lại đi mua Revit về để phát triển tiếp?

Ở Vn số người dùng Revit không ít nhưng mà dùng cho đúng thì lại rất ít. Nhưng mà nếu nói trên phạm vi quốc tế thì không đúng. Rất nhiều công trình trên thế giới vẽ bằng Revit. Nếu mà Revit nó không đủ trưởng thành thì tại sao chính phủ Mỹ lại yêu cầu các công trình của chính phủ phải theo BIM. Và tại sao Revit ở Úc lại phổ biến mạnh mẽ như thế. Có thể bạn sẽ phản biện bằng cách hỏi ngược là "vậy còn những nước khác thì sao, họ có dùng BIM không?". Dĩ nhiên là BIM đang dần thay thế CAD nên dĩ nhiên vẫn còn nhiều nơi người ta dùng CAD chứ. Cái quan trọng ở đây, cần phải nhấn mạnh lại một lần nữa: là phải xem người ta chuyển từ CAD sang BIM hay BIM sang CAD. Có thể thấy xu hướng dùng Revit và BIM trong nhưng năm qua chỉ có tăng và chứ không giảm. Còn CAD thì chỉ có giảm chứ không có tăng.

Một trong nhưng lý do lớn mà ở VN chúng ta Revit chưa thành công là vì chúng ta vẫn dùng Revit riêng lẽ. BIM phát huy sức mạnh của nó khi được dùng theo dây chuyền liên kết nhiều bô phận thiết kế với nhau. Ở VN chỉ dùng revit architecture là chính, nên sức mạnh của cái triết lý làm việc BIM bị mất đi đáng kể.

Về chuyện tuổi đời của 2 phần mềm, AutoCAD vẫn lâu hơn đáng kể. Đúng là Revit được mua lại vào năm 2002. Nhưng AutoCAD phiên bản đầu tiên là có từ năm 1982. ADT thực ra là một phiên bản của AutoCAD dành cho kiến trúc nên xét ra tuổi đời của nó vẫn phải tính từ năm 1982, vì về cơ bản nó vẫn là theo công nghệ CAD của AutoCAD.

Friday, March 4, 2016

Câu Hỏi đồ án nền móng
Câu 1: pmax≤ 1.2 [p] như vậy tại vị trí pmax có bị phá hủy không?
[p] = pgh/Fs với Fs thường lấy giá trị 2.0 – 3.0 do đó với pmax = 1.2[p] ta có hệ số an toàn thực sự Fs* = pgh/1.2[p] = Fs/1.2 có nghĩa là pmax ≤ 1.2[p] tương đương với hệ số an toàn Fs* ≥ (2.0 – 3.0)/1.2 > 1.0 nên không có sự “phá hủy” xảy ra với nền!
Nêu hiểu điều kiện không chế (giới hạn) ở đây là pmax≤ k.[p] với k là hệ số tận dụng điều kiện làm việc của đất nền trên một phạm vi hạn chế nhằm mục đích tiết kiệm . Theo TCXD 45-1978 hiện vẫn áp dụng thì k có thể áp dụng đến 1.5 cho trường hợp lệch tâm hai phương!
Câu 2: Trong tính toán sức chịu tải của nền có bao giờ tính đến trường hợp mưa lũ hay nước ngầm dâng đột ngột không?
Việc phân tich có bao gồm cả tình huống nước dâng được đặt ra khi có đủ lý do chưng tỏ nguy cơ đó xuất hiện, chẳng hạn thiết kế thỏa mãn tần suất mưa/lũ nào đó theo yêu cầu cho công trình cụ thể. Việc tính toán này thường làm tăng kích thước/độ sâu đặt móng ví sự xuất hiện áp lực nước lỗ rỗng không móng muốn do nước dâng làm giảm cường độ của đất nền.
Câu 3: Thầy cho em biết cơ sở tính toán công thức E0ch = (1 – f)E0 + f.Ectrong cọc cát.
Đây là công thức gần đúng xây dựng trên cơ sở trung bình có trọng số trong đó trọng số chính là tỉ diện tích của cọc cát trong một đơn nguyên xử lý (xem Chương 3 – Giáo trình Nền và móng)
Câu 4: Trong tính toán kiểm tra móng khối qui ước của móng cọc đài thấp khi tính jtb có công thức ... nhưng khi tính thường bỏ qua những lớp đất yếu thì jtb= ? . Nếu ta coi tất cả các lớp đất là như nhau và tính toán jtb cho cả lớp đất yếu có được không” làm như thế có an toàn hơn không?
Móng cọc được coi như một khối không biến dạng (còn gọi là móng khối qui ước) với kích thước xác định dựa vào góc huy động đất xung quanh tham gia vào sự làm việc của hệ thống cọc và đất giữa và xung quanh các cọc. Phạm vi huy động có thể xác định theo nhiều đề nghị khác nhau. Hiện có hai cách thông dụng là xác định theo a = jtb/4 bắt đầu từ mép ngoài của cọc biên kể từ độ sâu đáy đài và a = 30 kể từ 1/3 dưới cùng của cọc. Khi xây dựng theo cách đầu thì jtb là góc ma sát trong trung bình của đất trong phạm vi từ mũi cọc đến đáy đài, kế cả lớp đất yếu có ji = 0 (đương nhiên tích li.ji= li.0 = 0 – nên nhầm tưởng là không kể đến sự có mặt của đất yếu! nhưng dưới mẫu số vần có thành phần li = 0). Theo cách thứ hai (các nước Phương Tây thường áp dụng) nếu cọc đi qua một số lớp đất yếu ở trên thì góc a = 30 được áp dụng từ độ sâu 1/3 dưới cùng của phần cọc trong đất không yếu. Trong trường hợp sau cùng này, nếu kể cả lớp đất yếu nữa thì thiên về không an toàn (vì đáy móng mở rộng trong khi tải trọng không đổi kéo theo độ lún dự báo nhỏ đi!)
Câu 5: Khi nội suy e01, e02 từ đường cong e-p mà pi nhỏ hơn 100 thì độ chính xác không cao do e01, e02 quá bé. Có cách nào nội suy chính xác nhất không?
Để có thể nội suy chính xác hơn trên đồ thị đường cong nén nên biểu diễn quan hệ e – lg(s) vì khi đó trên trục hoành đoạn có giá trị snhỏ sẽ được dãn rộng ra. (lg(10) = 1; lg(100) = 2 ta có Dlgs = 1; lg(100) = 2; lg(200) ta có Dlgs = 0.3... hay khoảng từ lg(10) đến lg(100) trên trục hoành rộng hơn khoảng từ lg(100) đến lg(200) đến 3 lần trong khi trên đồ thị e – s đoạn sau có Ds = (100 – 200) = 100 dài hơn đoạn trước Ds = 90.
Câu 6: Sơ đồ nhà trong đồ án có khe nhiệt (hai cột sát vào nhau). Khi tính cốt thep móng chân vịt này phải tính như thế nào? Có cần kiểm tra lại kích thước đáy móng (theo cường độ - biến dạng) không?
Việc kiểm tra kích thước đáy mong vần tiến hành bình thường nhưng cần lưu ý là tải trọng (N0, M0) dùng để xác định ptx phải dời về trọng tâm đáy móng theo nguyên tắc của sức bền vật liệu.
Cốt thép được tính trên cơ sở mô men uốn do phản lực đất lên đáy móng gây ra như những trường hợp khác.
Câu 7: Khi dự báo sức chịu tải của cọc theo thí nghiệm SPT thì Ni lấy theo N hay N60vì nền đất có cả đất dính và đất rời.
Về nguyên tắc, tất cả các giá trị của N phải chuyển đổi về N60 trước khi áp dụng vào phân tích, tính toán. Tuy vậy, nếu công thức áp dụng được viết cho N thì không phải chuyển đổi. Có thể nói các phương tiện (công thức) áp dụng hai giá trị kể trên hiện nhiều tương đương nhau do ngưới ta phát hiện ra sự cần thiết phải qui đổi về N60 hơi muộn nhưng về lâu dài có lẽ nó sẽ chiêm ưu thế. Một khi có đủ kinh nghiệm để áp dụng N60 cho mọi phân tích thì giá trị ban đầu N sẽ trở thành điểm xuất phát theo đúng nghĩa của nó.
Câu 8: Tính thực tế và khả năng áp dụng của Đồ án vào thực tế?
Nội dung của Đồ án và các tình huống thiết kế đều có thể áp dụng vào thực tế vì bản thân nó được lấy từ các công trình thực sau khi giản lược bớt điều kiện địa chất để phương án nền và móng trở nên rõ ràng hơn mà thôi. Đồ án là một cơ hội tập dượt thiết kế trong đó ngoài yêu cầu tập hợp các kiến thức liên quan có trong sách vở từ nhiều môn học khác nhau là khả năng tỏ chức công việc, khả năng trình bày vấn đề và bảo vệ quan điểm của mình. Tất cả các nội dung/yêu cầu đó đều xuất phát từ thực tê và cho thực tế sau này.
Câu 9: Khi so sánh p ≤ [p] và pmax ≤ 1.2 [p] để kiểm tra kích thước đáy móng với sai số >10% có được không? bao nhiêu là thỏa mãn.
Kích thước đáy móng được xác định/lựa chọn theo nhiều yêu cầu khác nhau của các trạng thái giới hạn và hiệu quả kinh tế. Các nọi dung liên quan đến p và pmax chỉ là một phần nhỏ; sai số 5 hay 10% chỉ có tính chất ước định vì bản thân bài toán hiệu quả kinh tế còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, chẳng hạn khả năng thi công; khả năng tận dụng thời tiết...Về kỹ thuật, sai số cần hạn chế trước hết để thể hiện tư tưởng tiết kiệm ngay từ thiết kế và trong số nhiều yếu tố ảnh hưởng (có thể gọi đó là một bài toán hàm nhiều biến) thì việc lựa chọn yêu tố ưu tiên là khâu quan trọng nhất, các yếu tố khác không cần mà cũng không thể quá ngặt nghèo.
Trong Đồ án môn học, thống nhất hạn chế dưới 10% .
Câu 10: Khi tính toán 2 móng đơn của một công trình, độ lún của 2 móng lệch nhau > 3cm có được không?
Được hay không phụ thuộc chính vào khoảng cách giữa hai móng đó và sự chênh lệch đó có gây ra ứng suất phụ thêm cho kết cấu hay không; ứng suất đó là bao nhiêu và có nguy hiểm cho công trình hay không; có làm thay đổi cốt công trình tại các vị trí liên quan hay không và sự thay đổi đó có ảnh hưởng đến sử dụng công trình hay không...mới là vấn đề cần quan tâm. Tóm lại là lún/chênh lệch lún gây ra hậu quả gì? có chịu đựng được không? có được phép như vậy không? mới là vấn đề.
Câu 11: Vai trò của giằng móng? Khi nào thì cần có giằng móng và cấu tạo cụ thể của giằng móng.
Giằng móng là một kết cấu được dùng để liên kết các móng/kết cấu trên móng lại nhằm tăng cường độ cứng của toàn hệ. Ngoài ra giằng có thể sử dụng như dầm dỡ phần tường bên trên. Tùy ý đồ thiết kế của Kỹ sư mà cần phải có móng/nền gia cường dưới giằng hoặc không. Ngoại trừ trường hợp trên giằng có tường bắt buộc phải tính toán cần thận, giằng móng có thể đặt theo cầu tạo hoặc tính toán sự làm việc của nó trong tổng thể hệ kết cấu. Nói chung có thể lựa chọn kích thước tiết diện giằng theo nhiệm vụ của nó và các yêu cầu cấu tạo sau đó kiểm tra lại như các cấu kiện BTCT bình thường khác (chẳng hạn, chiều cao chọn theo chiều dài nhịp; bề rộng chọn theo chiều cao hoặc bề rộng tường bên trên...)
Câu 12: Em thấy trong tài liệu Nền móng do Thầy viết có sự chênh lệch giữa pxt và [p] là tương đối lớn. Lý do tại sao chấp nhận được điều đó? Điều đó có tính đến vấn đề kinh tế không?
Trong trường hợp tải trọng lệch tâm lớn thì nên căn cứ vào pmax để tìm kiệm thiết kế kích thước đáy hợp lý. Lưu ý rằng ngay cả như vậy (hạn chế 5/10%..) cũng chỉ là bước lựa chọn ban đầu mà thôi. Thiết kế là một quá trình gần đúng dần cả về kỹ thuật lẫn kinh tế. Quá trình này đòi hỏi ngoài kiến thức là thời gian và trách nhiệm. Phân lớn các ví dụ trong sách mang tính minh họa các bước thực hiện một luồng tư duy đã xác lập trước đó là chủ yếu, các không chế cả về kỹ thuật, cả về “kinh tê” không thể theo sát hoàn toàn: một phần Thầy không cho nó mang nhiều ý nghĩa lăm; phần khác, quan trọng hơn, các yêu cầu cụ thể được nêu ra trong các Nhiệm vụ thiết kế thường được thay đổi theo thời gian xây dựng công trình tuyg thuộc vào Tiêu chuẩn lúc đó/ ý muốn chủ quan của Chủ đầu tư/ trình độ công nghệ ...
Câu 13: Nếu để thỏa mãn yêu cầu kinh tế (<10%) như Thầy nói thì móng sẽ làm lẻ đến cm (ví dụ 1.36m). Như vậy có được không?
Về mặt nguyên tắc thì hoàn toàn được vì chúng ta đang bàn về móng BTCT. Tuy vậy, người ta không làm thế. Một phần, thêm bớt vài cm không đáng bao nhiêu mà đôi khi lại gây khó cho thi công – lợi bất cập hại; phần quan trọng, con số 10% chỉ là ước định chủ quan cho lựa chọn ban đầu chứ không phải qui định của pháp luật. Ngoài ra, trong xây dựng thường có 10% kinh phí dự phòng! Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn!
Câu 14: Xin Thầy cho biết cách chọn kích thước móng (b x l) mà phải thỏa mãn các điều kiện ptx≤ [p]; pmax ≤ 1.2[p] và {1.2[p] – pmax}/pmax ≤ 5%. Bản thân em thấy rất khó. Thầy chỉ rõ cách làm nhanh để thỏa mãn các điều kiện trên.
Không có cách nào để làm nhanh cả ví chúng ta không xài món mì ăn liền! Để có thể thỏa mãn các điều kiện trên có thể dùng phương pháp đồ thị là nhanh hơn cả: đầu tiện tìm b thỏa mãn đk 1 (xem đồ thị minh họa trang 50 sách Giáo trinh); tương tự cho các điều kiện sau.
Câu 15: Tại sao khi tính lún theo từng lớp phân tố phải chọn hi ≤ b/4?
Không ai bắt buộc như thế cả, đó chỉ là lời khuyên nhằm giảm bớt khối lượng công việc tính toán mà thôi ví trước đây toàn tính thủ công thôi. Bây giờ chỉ với máy bấm tay cũng không ngại gì khối lượng!
Câu 16: Trong móng nông phải đặt thép Fmin = ? và khoảng cách amin = ?
Xem yêu cầu cấu tạo móng, trang 43 Giáo trình. Thường chọn Fmin = 10; amin= 250/300
Câu 17: Nguyên lý tính toán giằng móng? Có thể tính theo sơ đồ không gian được không?
Xem Câu 11 ở trên. Nói rõ thêm tính toán giằng hoàn toàn được thực hiện theo ý đồ thiết kế của Kỹ sư. Có thể khai báo giằng như là một cấu kiện bình thường trong hệ kết cấu tổng thể của công trình để phân tích.
Câu 18: Em đặt móng ở độ sâu 0.4m trên nền cát nhỏ (dày 2m), bên dưới là đất yếu (bùn sét). Việc làm này có hợp lý không? Trường hợp nào không được?
Việc này chỉ hợp lý khi tải trọng công trình đủ bé không gây ra mất ổn định cho lớp đất yếu. Có thể coi đây là trường hợp riêng của thiết kế đệm cát trong đó chiều dày đệm đã bị hạn chế.
Độ sâu đặt móng 0.4m nói chung là tương đối bé do đó phải căn cứ vào cốt 0.00 trong thiết kế kiến trúc, cốt nền xung quanh công trình mới quyết định được 0.4m hay nhỏ hơn nữa có chấp nhận được không.
Câu 19: Khi nào sử dụng tải trọng tính toán và tải trọng tiêu chuẩn trong tính toán móng nông?
Trong phân tích thiết kế nền móng nói chung, chỉ có giá trị tính toán (nếu ta muốn gọi như vậy) của tải trọng được sử dụng cho tính toán với mọi trạng thái. Nên sử dụng thuật ngữ “Tải trọng danh nghĩa” thay cho “Tải trọng tiêu chuẩn” . Giá trị tính toán của tải trọng được xác định từ giá trị danh nghĩa sao cho đảm bảo “an toàn” cho công trình bằng cách tác dụng vào giá trị dnah nghĩa yếu tố an toàn mà ta thường gọi là hệ số vượt tải. Lưu ý, ngay cả khi hệ số bằng 1 thì ý nghĩa của hai giá trị vẫn phải được hiểu khác nhau (đọc lại các trang 25 – 28 của Giáo trình).
Câu 20: Thiết kế móng cọc thì điều kiện kinh tế như thế nào?
Cái gọi là điều kiện tiết kiệm ở đây có rất rất nhiều yếu tố tác động vào. Nói riêng về việc lựa chọn kích thước cọc (Lc, Dc) có thể tạm nêu một tiêu chí là khối lượng bê tông cọc/1 tấn tải trọng hoặc ngược lại tải trọng (tấn)/1 m3 bê tông cọc để so sánh.
Câu 21: Tại sao [P]vl> [P]đn? Chọn [P]vl tương đương [P]đn được không?
Đất nền là thứ trời cho, vật liệu là thứ ta làm ra do đó nên ưu tiên khai thác hết nhưng gì trời cho trước. Chọn tương đương là tốt nhất hiểu theo nghĩa kinh tế giản đơn tuy vậy điều này ít khi đạt được.
Câu 22: Giằng móng đặt ở chân cột và ở đáy móng khác nhau như thế nào?
Đặt ở đâu cũng được, tùy ý thích của Kỹ sư thiết kế là chính. Tuy vậy, về phương diện kết cấu, đặt ở đáy móng làm cho nhịp giằng ngắn lại, độ cứng cao hơn nếu có cùng tiết diện. Nếu độ sâu đặt móng lớn,việc đặt ở cốt 0.0 sẽ làm tăng độ cứng chống uốn của cột, có lợi co cột hơn. Đặc biệt khi có ý đồ giảm độ lệch tâm cho móng thì nên đặt ở 0.00.
Câu 23: Khi dưới móng nông có pmin < 0 thì tính cốt thép như thế nào?
Cần phải tính lại sự phân bố phản lực đất lên đáy móng với quan niệm phần p < 0 lấy p = 0 do đất không có khả năng chịu kéo. Với phản lực mới, việc tính mô men uốn “bản” móng như thông thường.
Câu 24: Nền đất trong Đồ án của em không có thí nghiệm nén e – p, em tính lún theo công thức lý thuyết đàn hồi thì có cần tính và vẽ biểu đồ ứng suất để tính chiều sâu ảnh hưởng không? Em lấy chiều sâu ảnh hưởng Hn = (2 – 3)b có được không? có cần kể đến ảnh hưởng cutra móng gần nhau không?
Nên xây dựng các biểu đồ đó để xác định chiều dày chịu nén một cách tin cậy hơn. Lưu ý khi áp dụng Hn = (2 – 3)b thì b hoặc là bề rông móng hoặc là bề rộng nhà/công trình tùy theo khoảng cách giữa các móng.
Câu 25: Việc cấu tạo và tính toán cho 2 móng đơn sát nhau ở khe lún như thế nào?
Hiển nhiên là phải cầu tạo 2 móng lệch về hai phía. Ở đây móng lệch tâm về hình thưc chứ chưa chắc đã lệch tâm về truyền tải do ảnh hưởng của thành phân mô men ở chân cột từ tải trọng công trình thường làm giảm độ lệch tâm của tổng tải trọng.
Câu 26: Sự khác nhau cơ bản giữa móng băng dưới cột và móng băng dưới tường?
Tải trọng lên móng băng dưới tường chủ yếu do tường gây ra do đó nó xuất hiện trên móng khi được thực hiện làm cho độ cứng chung của hệ móng – tường tương đối lớn, móng được coi là móng cứng; móng băng dưới cột chịu tải trọng tập trung ở chân cột là chủ yếu; tải trọng này xuất hiện khi độ cứng của móng không thay đổi và tương đối bé (do chiều dài móng lớn) nên phải coi là móng có độ cứng hữu hạn (móng mềm). Sự làm việc của hai loại móng này khác hẳn nhau.
Câu 27: Tải trọng khoảng bao nhiêu thì sử dụng cọc khoan nhồi? Đồ án của em có tải trọng chân cột N = 500T, ở độ sâu 26m mới có lớp sỏi sạn, các lớp trên đều xấu, em dùng cọc khoan nhồi có được không?
Tải trọng nào cũng có thể làm cọc nhồi cũng như tải trọng nào cung có thể dùng cọc đúc sẵn. Tuy vậy, do bản chất của cọc nhồi là khó/không thể kiểm soát chất lượng nên chi dùng nó khi không còn cách nào khác, chắng hạn tải trọng quá lớn không thể có đủ chỗ để bố trí cọc đúc sẵn. Với tải trọng 500T hoàn toàn không cần thiết phải dùng cọc nhồi. Một mặt. đây chưa phải là giá trị quá lớn; mặt khác đồ án không hạn chế mặt bằng. Ngoài ra, để có thể đảm bảo được chất lượng cọc nhồi, nên chọn kích thước không dưới 800 và do đó lựa chọn 2 cọc nhồi trở nền quá đắt đỏ.
Câu 28: Làm rõ hơn về giải pháp gia cố cọc cát cho móng băng dưới tường!
Cọc cát được dùng trong gia cố nền trước hết là để nén chặt đất. Biểu hiện của nó là hệ số rỗng ban đầu của đất giảm làm cho đất được chặt hơn, độ lún của nền khi chịu tải trọng công trình sẽ giảm xuống. Ngoài ra, sự có mặt của cát trong đất yếu làm tăng góc ma sát chung của đất làm cho cường độ của đất nền cũng được cải thiện. Một số tiện ích khác xảy ra trong đất thường có tác dụng tốt, chẳng hạn tăng tốc độ cố kết.
Thiết kế cọc cát chủ yếu dựa vào hiểu quả giảm hệ số rỗng, cọc cát cho móng băng cũng không ngoại lệ. Do đó trước hết phải đảm bảo làm giảm hệ số rỗng như mong muốn bằng cách bố trí cách đều các cọc. Nói chung không nên bố trí dưới 3 hàng và trục dọc móng trùng với trục dọc của mặt bằng cọc.
Câu 29: Thế nào là nền đồng nhất? khi nào thì xem nền là đồng nhất?
Nền nói chung không đồng nhất, ngay cả khi chỉ có một loại đất vì thường chỉ có thể tương đối đồng nhất về bản chất vật lý còn tính chất cơ học luôn thay đổi theo độ sâu do ảnh hưởng của ứng suất ban đầu. Trường hợp trong phạm vi ảnh hưởng của công trình (chẳng hạn trong phạm vi chịu lún) nền chỉ có một loại đất và sự thay đổi tính chất cơ học là không đáng kể thì có thể xem nền là đồng nhất. Trong trường hợp này ta gọi là đồng nhất theo nghĩa kỹ thuật. Hai bài toán cơ bản liên quan đến sự làm việc của nền dưới công trình là biến dạng và cường độ do đó cũng có hai khái niệm “đồng nhất” liên quan đến chúng. Nếu cả hai đều có thể xem là đồng nhất thì ta có nền dồng nhất.Ngược lại ta nói nền đồng nhất về biến dạng/về cường độ.
Câu 30: Trong làm nhà có thể đổ giằng ở dưới rồi mới xây bằng gạch hoặc đá được không?
Có thể được và thường gặp khi giằng đặt ở cao trình đáy móng. Một loại cấu tạo khác cũng được gọi là giằng thường đặt ở cốt 0.00 có nhiệm vụ chống thấm lên tường thì đương nhiên phải đặt sau.
Câu 31: Kiểm tra chọc thủng móng với góc 450 lấy cơ sở ở đâu? sao không lấy nhỏ hơn hay lớn hơn?
Góc 450 là góc xuất hiện ứng suất kéo lớn nhất (ứng suất kéo chính) trong cấu kiện chịu ép mặt cục bộ (xem Sức bền vật liệu) do đó là nới nguy hiểm nhất đối với các loại vật liệu có khả năng chịu nén tốt hơn chịu kéo rất nhiều như bê tông. Đảm bảo khả năng an toàn dưới tác dụng của ứng suất kéo lớn nhất cũng có nghĩa là đảm bảo được an toàn của móng do đó tính toán phải thực hiện trên tiết diện đó. Nếu không thể đảm bảo được chỉ nhờ vào bê tông người ta phải bố trí thêm thép xiên chịu kéo vuông góc với tiết diện đó.
Câu 32: Lớp đất lấp dày 1.6m thì đặt đáy đài ở độ sâu 1.6m có chịu được tải trọng ngang hay không?
Đất lấp là thuật ngữ dùng để chỉ loại đất có nguồn gốc nhân tạo không theo một qui tắc nào khi xuất hiện do đó tính chất rất bất thường, độ tin cậy khi sử dụng kém. Tuy vậy không có nghĩa là loại đất yếu, chỉ đơn giản là ta khó có được thông tin về nó mà thôi. Ngoài ra, ngay cả đất yếu cũng có thể tiếp nhận được phần nào tải trọng nên không có lý gì đất lấp không tiếp nhận được tải trọng. Để đám bảo kết quả phân tích có thể tin cậy được, trong trường hợp này ta nền sử dụng đất mới để lấp móng với các chỉ tiêu cơ lý được lựa chọn một cách thích hợp là được.
Câu 33: Trong thiết kế cọc nhồi, ống vách hạ đến độ sâu bao nhiêu? Dung dịch sét có tác dụng gì? có làm giảm ma sát giữa cọc và đất không?
Có hai loại ống vách khác nhau về chiều dài: suốt chiều dài cọc hoặc chỉ một đoạn trên. Trường hợp chỉ sử dụng ổng vách cho đoạn trên với chiều dài hạn chế thì phải căn cứ vào điều kiện đất nền mà lựa chọn sao cho khi thi công sự hoạt động của thiết bị không gây ra sụt lở thành hố đào, không tổn thất dung dịch khoan làm ảnh hưởng đến chất lượng cọc. Chiều dài thường áp dụng theo kinh nghiệm thi công tại từng khu vực cụ thể, chẳng hạn, ở khu vực Hà nội, chiều dài 5 – 7 m được lựa chọn.
Dung dịch khoan nói chung có tác dụng tạo áp lực ngược từ hố khoan lên thành gây ra dòng thầm dung dịch vào đất, hạn chế đất trên thành lở vào hố. Do dung dịch có độ nhớt cao, dòng thấm dung dịch vào đất để lại trên thành một màng mỏng có tác dụng tăng cường sự ổn định tạm thời của đất trên thành do đó tạo cơ hội nâng cao chất lượng cọc.
Lớp màng để lại trên thành hố ít ảnh hưởng đến ma sát của cọc với đất xung quanh: một mặt, khi bê tông dâng lên,ma sát giữa bê tông với thành hố rất lớn sẽ được bóc gỡ lớp màng này ra, trộn lẫn với phần bê tông xấu trên cùng; mặt khác trong quá trình tồn tại, sự thay đổi áp lực nước lỗ rỗng trong đất sẽ được phần đất này trở lại bình thường. Nói chung độ dày của lớp này rất nhỏ, không ảnh hưởng đáng kể đến ma sát đất – cọc, sự giảm, nếu có, không đáng được xét đến một cách chi tiết trong tính toán (vì đã được vào hệ số triết giảm theo phương pháp thi công)
Câu 34: Em thấy móng có nhiều loại, mỗi loại có cách tính riêng liệu có phần mềm nào cho từng loại móng không?
Tính toán móng thường rất đơn giản do đó không cần phải có phần mềm riêng, các Kỹ sư thường dựa vào Excel để lập các bảng tính cho mình. Riêng phân tích móng mềm (móng băng, móng bè) có thể sử dụng các phần mềm kết cấu thông dụng hiện nay cũng được. Trong số các phần mềm có thể dùng để phân tích móng, SAFE là một phần mềm dễ sử dụng. Ở Bộ môn, đã có nhiều sinh viên tin học thực hiện các phần mềm theo yêu cầu nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở đó vì không có triển vọng thương mại.
Câu 35: Trong móng cọc hqu là đoạn nào? từ mặt đất đến đáy dài hay đến mũi cọc?
hqu được tính từ mặt đất đến mũi cọc.
Câu 36: Giả sử do yêu cầu kiên trúc một phần ngôi nhà nằm trên đất và một phần nằm dưới nước (chẳng hạn nhà nằm bên hồ) thì móng của công trình cần lưu ý gì và nguyên tắc cơ bản để tính toán móng cho công trình này như thế nào?
Đây là một tình huống thú vị trong thiết kế, có nhiều khả năng có thể xảy ra cũng như có nhiều phương án để đối phó. Thông thường các móng có cao trình khác nhau, có thể có cấu tạo khác nhau, có bản chất khác nhau. Điều này tùy thuộc ý muốn chủ quan của Kỹ sư thiết kế, khả năng tài chính của Chủ đầu tư, điều kiện thi công cụ thể và năng lực của Nhà thầu thi công. Điều quan ngại chính là sự làm việc đồng thời của móng với kết cấu bên trên do đó trước hết nên chọn sơ đồ kết cấu mạch lạc, cố gắng tránh các tác động gây ra ứng suất phụ theo các phương cho kết cấu bằng các giải pháp móng có độ tin cậy cao, chẳng hạn phần dưới nước có thể dùng móng cọc và do đó phân trên cũng dùng móng cọc mặc dù đáng ra không cần phải thế hay tát cạn nước để có thể đặt móng nông cho cả trên và dưới...Sơ đồ móng lựa chọn rõ ràng, phân tích móng như các trường hợp thông thường khác sau đó đưa toàn bộ hệ móng cùng kết cấu bên trên vào sơ đồ phân tích tổng thể để có thông tin tin cậy cho thiết kế lại toàn bộ công trình.

Sample Text

Blog Archive

Powered by Blogger.

Disqus Shortname

Widget Recent Post No.

Widget Random Post No.

Widget Recent Comment No.

PageNavi Results No.

Comments system

IMG Scroll Animation (yes/no)

Business

Boxed Version (yes/no)

Flickr Widget

Comments

Contact us

Name

Email *

Message *

Random Posts

luongkxc

Facebook

https://www.facebook.com/luongkxc

Disqus Shortname

Popular Posts